Dấu chỉ thời đại

Có những thay đổi và phát triển được nhìn nhận là đem lại ích lợi. Chúng góp phần gia tăng biên độ của sự đa dạng hóa. Chúng có thể là cơ hội để học hỏi và mở rộng tầm nhìn mang tính trí tuệ, để có những trải nghiệm mở ra những góc nhìn mới và củng cố kinh nghiệm cá nhân, để tự do đưa ra những quyết định về cuộc sống sao cho phù hợp hơn với nhu cầu của bạn, mà không cần phải dùng đến một mô hình chung cho tất cả.

Tuy nhiên, có một điều không nên bỏ qua: không phải tất cả mọi thay đổi và phát triển đều đem lại những điều tích cực. Nhìn chung, một số chiều hướng có vẻ quá đà và dẫn đến hậu quả tiêu cực. Ngày nay, dường như mọi người đang dần nhận ra tác động có hại của những thay đổi và phát triển so với vài năm trước đây. Những điều trước kia tưởng như chắc chắn thì nay lại đang sụp đổ. Các mô hình đã được thiết lập trước đó đang mất dần chỗ đứng. Sự bất ổn kinh tế đang gia tăng. Xung đột vũ trang đang leo thang. Vấn đề di dân đang tác động đến nhiều quốc gia. Các cơ hội mới về mặt khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, đang mang đến những thách thức mới cho nhân loại. Tình hình chính trị toàn cầu với các khối quyền lực tương đối ổn định cho đến nay thì bây giờ lại bị lung lay. Các cấu trúc xã hội cho đến gần đây được coi là đáng tin cậy, chẳng hạn như các đảng phái chính trị hoặc chính Giáo hội, lại đang bị thách thức; và trong một số trường hợp, sự mong manh đáng báo động của chúng đang bị phơi bày.

Nhiều người đã chán ngán với sự thay đổi và phát triển. Thời thế dường như ngày càng phức tạp, căng thẳng, khó hiểu và bất ổn. Do đó, mong muốn về sự bình lặng, ổn định và kế thừa ngày càng trở nên cấp thiết. Thật không dễ để thỏa mãn những nguyện vọng này. Nếu cả thế giới đang thay đổi, thì mỗi cá nhân có thể phản ứng như thế nào? Đối mặt với thách thức như vậy, một số người trở nên chán nản và buồn bã, trong khi những người khác tìm nơi ẩn náu trong chủ nghĩa cực đoan hoặc thuyết âm mưu, trong những nỗ lực vô ích nhằm đơn giản hóa một thế giới phức tạp. Tuy nhiên, những nỗ lực này thực sự khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn khi họ phớt lờ vấn đề, đẩy con người sang một bên và tạo ra sự chia rẽ dữ dội.

Tính ngôn sứ

Tình hình này sẽ diễn biến như thế nào và sẽ dẫn chúng ta đến đâu? Ngành điện ảnh xây dựng những “vị ngôn sứ” có thể nhìn thấy tương lai rõ ràng. Những câu chuyện này mang lại hy vọng cho những người sợ hãi muốn chuẩn bị cho những gì sắp xảy ra. Những “vị ngôn sứ” này sớm muộn gì cũng trở thành những kẻ lừa đảo khi lợi dụng nỗi đau khổ của mọi người để trục lợi cho bản thân. Thay vào đó, vẫn có đó những người mang nhận thức sâu sắc về thế giới mà họ đang sống. Họ đánh giá thế giới dựa trên đức tin và niềm tin của mình, và đưa ra kết luận về những gì có thể và cần thiết khi hành động. Họ sở hữu đủ năng lực trí tuệ, trí tưởng tượng, sự đồng cảm, kinh nghiệm và sự sáng suốt để nhận ra hướng đi của một số diễn biến nhất định, cũng như những tác động phải gánh chịu trong một số hoàn cảnh nhất định.

Những người này là các vị ngôn sứ trong Kinh Thánh, những người giải thích và quảng bá Lời Chúa trong và cho thời đại của họ, mỗi khi xảy ra nguy cơ không thấy rõ con đường phía trước. Họ là nhân vật nhắc nhở cho những người đương thời về ý muốn của Chúa, về những gì họ có thể hy vọng liên quan đến tương quan của Chúa với dân Người, về những mục tiêu cần hướng tới để tuân giữ các điều răn của Chúa và tìm thấy niềm vui và sự bình an cho mình. Khi nại tới Lời Chúa và ý Chúa, các ngôn sứ trong Kinh Thánh chỉ cho những người đương thời về lối nẻo khả thi để vượt qua thời kỳ bất ổn mà họ đang sống. Họ đưa ra những hướng dẫn và cung cấp những hiểu biết sâu sắc về những hành động cần thực hiện để có một cuộc sống hạnh phúc.

Vì các Kitô hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, được trở nên các tư tế, vương giả và ngôn sứ phổ quát, nên mỗi Kitô hữu và toàn thể Giáo hội đều phải đối diện với thách thức trong việc sống đúng với trách nhiệm “làm ngôn sứ.” Trong thế giới ngày càng gia tăng những bất ổn, nghi ngờ và bối rối, các hoạt động ngôn sứ tập trung vào những gì thường được coi là “an toàn” trong các cuộc tranh luận công khai và học thuật, khi sử dụng Lời Chúa làm kim chỉ nam. Sau đây là một số ví dụ: Thiên Chúa được mô tả là đá tảng, đồn lũy, đấng giải thoát, nơi ẩn náu và khiên chắn (2Sm 22,2-3). Hay Đức Chúa là Đấng làm cho những ai tin cậy Ngài được ngẩng đầu hiên ngang vì Ngài luôn canh giữ, hộ phù (x. Tv 3,4-6). Hoặc Đức Chúa bảo vệ con người trong lều trại của Ngài (Tv 27,5). Theo sách Châm Ngôn (Cn 18,10), danh Đức Chúa là tháp canh kiên cố mang lại sự an toàn. Còn trong Isaia, Đức Chúa là Đấng bảo vệ kẻ hèn yếu (Is 25,4); Ngài bảo vệ con người khỏi ác thần (2Tx 3,3). Những câu Kinh Thánh này và những câu khác cho thấy sự khích lệ là ý tưởng chủ chốt và là góc nhìn để hiểu cuộc sống của chúng ta.

Những bản văn Kinh thánh như vậy đảm bảo với chúng ta rằng sự không chắc chắn và nghi ngờ không chỉ che giấu mối đe dọa mà còn có thể là điềm báo về những cơ hội đầy triển vọng. Hơn nữa, nhiệm vụ của những người tin vào Thiên Chúa Nhân Từ, Đấng ban cho họ sự an toàn và lòng can đảm, là làm mọi cách có thể để đảm bảo rằng những người cần được bảo vệ và an toàn có thể được hưởng lợi từ điều đó. Những ai tin vào Thiên Chúa nhân từ, Đấng luôn bảo vệ họ, sẽ luôn nghĩ về điều này và hành động dựa trên điều đó. Họ làm điều này cho chính họ và cho người khác. Giáo hội cũng theo lối tiếp cận này. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (GS) của Công đồng Vaticanô II đã nêu rõ điều này ngay từ đầu: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ” (GS 1). Trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium (LG), Giáo hội được hiểu là một dấu chỉ và một khí cụ. Dựa vào các thuật ngữ đang được thảo luận ở đây, Giáo hội vừa là nơi an toàn vừa là biểu tượng của sự an toàn. Giáo hội cung cấp sự bảo vệ và chỉ ra cách chung sống an toàn (trong vai trò là dấu chỉ). Đồng thời, Giáo hội giúp mọi người cảm thấy an toàn ở mọi nơi và mọi lúc (trong vai trò là khí cụ).

‘An toàn’, ‘Sự an toàn’, ‘Việc bảo vệ an toàn’

Theo cách chúng tôi phác thảo về sứ mạng đảm bảo cho mọi người có thể và nên cảm thấy an toàn (chức năng bảo vệ), nhiệm vụ này có vẻ dễ hơn thực tế. Nhưng nó phụ thuộc rất nhiều vào cách hiểu ý nghĩa của thuật ngữ “an toàn” (being safe). Nó trở thành một vấn đề vì không phải mọi thứ có thể được coi là an toàn thì sẽ có lợi cho cuộc sống con người cách chung. Ví dụ, không còn nghi ngờ gì nữa là nhà tù với trang bị an ninh tối đa sẽ trở thành một trong những nơi an toàn nhất trong xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là nơi mà các quyền tự do dân sự bị hạn chế rất nhiều, các lựa chọn quan trọng hầu như không tồn tại và tiềm năng phát triển cá nhân về mặt lý thuyết là có thể, nhưng trên thực tế chỉ có thể đạt được ở mức độ rất hạn chế.

Ngoài ví dụ vừa đưa ra, các bằng chứng khác cũng cho thấy việc làm rõ ý nghĩa của thuật ngữ “an toàn” hoặc “sự an toàn” là cần thiết như thế nào. Giáo hội có kinh nghiệm đáng kể trong việc thực thi trách nhiệm của mình liên quan đến việc xử lý đúng đắn các trường hợp lạm dụng. Nếu các biện pháp an toàn cần thiết cho trẻ em và thanh thiếu niên cuối cùng lại gây hại cho chính những người mà được cho là sẽ được bảo vệ, chúng ta cần phải hỏi còn điều gì chúng ta chưa đạt được và tại sao lại như thế. Do đó, chúng ta không thể không thắc mắc là chính xác chúng ta muốn nói đến điều gì khi nhắc tới thuật ngữ “an toàn”. Trong bối cảnh này, một ví dụ có liên quan là trường hợp giáo lý viên hoặc linh mục không dám nhấc một đứa trẻ bị ngã khỏi mặt đất hoặc giúp đứa trẻ đó đứng dậy, vì các quy tắc về khoảng cách, vì sợ bị buộc tội sai là muốn chạm vào đứa trẻ với ý định trá hình và không đúng mực. Trong những trường hợp này, không thể nói rằng đứa trẻ bị ngã được kiểm soát, được canh giữ và bảo vệ đầy đủ trước những phản ứng có động cơ sợ hãi như vậy. Một lần nữa, chúng ta hiểu rõ rằng không nên có thắc mắc, đặc biệt là trong bối cảnh Giáo hội, về ý nghĩa của thuật ngữ “an toàn”. Tất cả các thành viên của Giáo hội cần phải cởi mở và trung thực. Nếu không, họ có thể trở thành những ngôn sứ giả. Họ có thể thúc đẩy quá nhiều sự giám sát, cô lập và bảo vệ quá nghiêm ngặt, điều này có thể ngăn cản sự tiến bộ. Điều này cũng có thể cản trở nhiệm vụ quan trọng của họ là giữ an toàn cho mọi người và hiểu được ý nghĩa thực sự của sự an toàn.

Trong Giáo hội đang có thảo luận về ý nghĩa của sự an toàn. Nhưng đôi khi, cuộc thảo luận tập trung vào những điều khác. Bao gồm danh tiếng của Giáo hội, áp lực chính trị, cách truyền thông nhìn nhận Giáo hội và thẩm quyền của Giáo hội trong việc chăm sóc mọi người, v.v. Đôi khi, cuộc tranh luận này khiến một số người từ chối những hướng tiếp cận mới. Những quan điểm phiến diện và thái quá liên quan đến sự an toàn làm cho chúng ta gần như không thể thực hiện các biện pháp an toàn hợp lý.

Điều quan trọng là phải biết phân biệt rõ ràng. Xét ở vai trò ngôn sứ của Giáo hội, điều này trước hết có nghĩa là tập trung vào Lời Chúa. Theo nghĩa này, Nước Chúa được thể hiện như một tầm nhìn và lý tưởng về không gian an toàn, các mối quan hệ an toàn, các quy trình an toàn, nghĩa là một môi trường và bối cảnh sống an toàn. Điều này đặc biệt rõ ràng trong Is 11,8-9: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển”. Trong Rm 14,17, Nước Trời được coi là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, đồng thời trong 2 Cr 3,17 cũng khẳng định rằng nơi nào Thần Khí của Chúa hoạt động thì nơi đó có sự tự do. Bằng cách liên hệ những phát biểu này này với những câu được trích dẫn ở trên, theo đó việc tuyên xưng Chúa là khiên che, là nơi ẩn náu và là đồn lũy, thì hai khía cạnh thiết yếu và bổ sung cho nhau về sự an toàn (safety) và khái niệm “được an toàn” (being safe) xuất hiện. Một mặt, chúng ta thấy được khía cạnh phòng vệ và bảo vệ của từ “đồn lũy”: bảo vệ khỏi nguy hiểm, đây là quan điểm tiêu cực về sự an toàn. Mặt khác, từ này cũng mang nghĩa hỗ trợ, tức là không gian an toàn cho một cái gì đó, tập trung vào sự tự do. Điều này mang lại cho sự an toàn một ý nghĩa tích cực.

Khía cạnh phòng thủ của sự an toàn nhằm mục đích bảo vệ mọi người khỏi những nguy hiểm có thể gây hại cho họ về thể chất hoặc tinh thần đến mức họ mất đi tiềm năng trong tương lai. Việc bảo vệ khỏi sự thao túng và kiểm soát bên ngoài có nguy cơ hướng tới cùng một mục tiêu, cũng như sự bảo vệ khỏi sự xấu hổ và nhục nhã, cuối cùng sẽ cô lập và xa lánh mọi người trong và khỏi bối cảnh xã hội của họ. Ngoài ra, không nên quên sự bảo vệ khỏi những vấn đề khó khăn liên quan đến việc thiếu an toàn và ổn định, ví dụ như trong các mối quan hệ với người khác, trong các nghề nghiệp khác nhau hoặc khả năng không đủ để xử lý các nhiệm vụ và thách thức mà một người có thể gặp phải.

Khía cạnh hỗ trợ của sự an toàn nói về tiến trình lớn lên, ví dụ như trong đó cho phép mắc lỗi trong quá trình học tập và thử nghiệm. Những lỗi này không được gây ra tác hại vĩnh viễn hoặc cản trở các cơ hội trong tương lai. Môi trường an toàn hỗ trợ nhiều loại người khác nhau và ngăn họ khỏi bị các nhóm lấn át. Chúng cũng ngăn các nhóm tan rã. Mọi người cảm thấy được coi trọng, chấp nhận và mạnh mẽ khi họ tham gia các hoạt động cộng đồng và chia sẻ thành công và sự hỗ trợ.

Bảo vệ an toàn bằng hành động

Khi xem xét kỹ hơn, các ví dụ sau đây có thể minh họa cách hiệu quả các đặc điểm chính của những gì có thể được hiểu là sự an toàn và việc bảo vệ (tức là nỗ lực đạt được những gì được hiểu là an toàn).

Trước hết, sự an toàn và việc bảo vệ an toàn được xem như một thực hành mang tính biện chứng

Nếu sự an toàn bao gồm hai khía cạnh hoặc đối cực, cực mang tính phòng thủ hơn và cực mang tính hỗ trợ hơn, thì việc bảo vệ an toàn cũng như vậy. Cho đến nay, khía cạnh tiêu cực trong cách hiểu về sự an toàn, tức là phòng vệ và bảo vệ, đã giúp bảo vệ phẩm giá của con người và ngăn họ trở thành những đối tượng chỉ bị người khác kiểm soát. Tuy nhiên, chỉ tập trung vào sự bảo vệ có thể khiến mọi người trở nên thụ động và phụ thuộc vào những người bảo vệ họ. Để khắc phục điều này, chúng ta cũng cần nghĩ đến khía cạnh hỗ trợ của sự an toàn cũng như bảo vệ an toàn. Theo đó, bảo vệ an toàn không chỉ là phòng vệ, nhưng là sự bảo vệ đến từ việc cá nhân được trao quyền và phát triển môi trường có khả năng giúp cho các cá nhân và nhóm trở nên mạnh mẽ hơn, ví dụ như các cộng đồng giáo xứ chẳng hạn.

Thứ hai, an toàn và việc bảo vệ an toàn là một chủ đề nhân học phổ quát 

Khái niệm an toàn dựa trên dữ liệu cơ bản khi mô tả con người là những thực thể xã hội xung đột với tính cá nhân của họ. Con người hóa ra có khả năng và cần được phát triển, đó là lý do tại sao họ phải đối mặt với rất nhiều mối nguy hiểm gây cản trở cho sự an toàn của họ. Họ luôn có nguy cơ thất bại, gặp phải những trở ngại và hạn chế, và do đó là sự không chắc chắn. Với những giả định chung này về con người, không còn nghi ngờ gì nữa rằng vấn đề an toàn và bảo vệ an toàn có liên quan đến tất cả các cá nhân, mặc dù vẫn có một số nhóm người có vẻ có nguy cơ cao hơn về mức độ an toàn do các tình huống cụ thể (chẳng hạn như trẻ em do nhu cầu tâm lý liên quan đến quá trình trưởng thành hoặc người di cư do điều kiện chính trị xã hội của họ), và do đó họ được phân loại là “dễ bị tổn thương” (vulnerable). Mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa có lời đáp về cách phân loại như vậy, nhưng có thể hiểu được rằng chủ đề bảo vệ ban đầu chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ và an toàn cho trẻ em và thanh thiếu niên trước các trường hợp lạm dụng và các cá nhân đang được giám hộ nằm trong phạm vi trách nhiệm của Giáo hội. Tuy nhiên, vì an toàn là vấn đề của tất cả mọi người, nên khái niệm bảo vệ an toàn cần được áp dụng rộng rãi hơn nhiều. Đây là một nhu cầu mang tính phổ quát về mặt nhân học.

Thứ ba, an toàn và việc bảo vệ an toàn xét từ góc nhìn về sự dạng

Con người thể hiện bản thân trong sự căng thẳng giữa tính cá nhân và tính cộng đồng. Điều này cũng được phản ánh trong nội hàm của thuật ngữ về an toàn và bảo vệ an toàn. Việc một tình huống được coi là an toàn, cho dù sự an toàn được coi là bản chất của hoàn cảnh đó hay không phụ thuộc vào cả nhận thức cá nhân và các định hướng và mô hình văn hóa khác nhau. Ví dụ, trong khi ở một số nền văn hóa, ý tưởng về an toàn gắn liền với việc tuân thủ đúng các quy tắc, thì ở những nền văn hóa khác, điều đó không nhất thiết phải như vậy. Khi đối diện với cùng một tình huống thì một số người có thể không cảm thấy an toàn chút nào với một số điều kiện nhất định, những người khác lại có thể cảm thấy an toàn hoặc ít nhất là ít đáng báo động hơn. Khi xem xét nghiêm túc tính đa dạng về sự an toàn và bảo vệ, người ta chỉ có thể đi đến một kết luận: rất khó hoặc thậm chí không thể xác định một khái niệm duy nhất về sự an toàn và việc bảo vệ an toàn áp dụng cho mọi người và mọi nơi. Trong mỗi trường hợp, cần có sự hiểu biết giữa các nền văn hóa về ý nghĩa về sự an toàn và việc bảo vệ an toàn và cách thức đạt được cả hai.

Thứ tư, an toàn và bảo vệ an toàn như một thách đố về cách làm việc theo mạng lưới

Các vấn đề xung quanh sự an toàn và, theo nghĩa mở rộng, thực thi các biện pháp bảo vệ cũng đa dạng như chính cuộc sống. Việc giới hạn các vấn đề về an toàn và bảo vệ an toàn vào chủ đề tình dục hoặc bạo lực tình dục cũng sẽ sai lầm như là cho rằng những khía cạnh này kém quan trọng hơn các lĩnh vực khác của cuộc sống. Con người là sự thống nhất của tinh thần, tâm hồn và thể xác, và khi xem xét mọi khía cạnh của con người, rủi ro có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và không thể loại trừ sự mơ hồ như bóc lột kinh tế, bạo hành thể lý, mối đe dọa của chiến tranh và sự thiệt thòi về mặt văn hóa. Không phải vô cớ mà một trong những văn kiện gần đây nhất của Vatican, Dignitas Infinita – [Tuyên ngôn về phẩm giá con người] – đã nhấn mạnh đến nhiều mối đe dọa đối với phẩm giá con người.[1] Xét đến tất cả những cân nhắc này về sự suy thoái và mất giá của con người, thì không có biện pháp bảo vệ nào cả. Việc bảo vệ không nên chỉ tập trung vào một số rủi ro trong khi bỏ qua những rủi ro khác. Nếu làm vậy, đó chỉ là một nỗ lực hời hợt có vẻ quan tâm nhưng thực tế không thực sự bảo vệ hoặc giúp đỡ mọi người.

Việc bảo vệ an toàn do Giáo hội điều hành nên được định hình theo cách sau: một mặt, tất cả các hoạt động của Giáo hội quan tâm đến sự tồn tại của con người cách chu đáo và đáng sống xét như là sự dấn thân mang tính mục vụ và bác ái của Giáo hội thì nên thiết lập các mạng lưới làm việc. Điều này áp dụng cho việc chăm sóc người nghèo, mục vụ cho người nhập cư, tư vấn tâm lý và đồng hành thiêng liêng. Mặt khác, các đơn vị bảo vệ an toàn mới được thiết lập trong Giáo hội nên làm nhiều điều khác, hơn là chỉ chống lại lạm dụng. Họ nên coi mình là người bảo vệ các giá trị cốt lõi liên quan đến sự an toàn và việc bảo vệ. Sứ mệnh của họ mang tính ngôn sứ, nhằm thúc đẩy các kỹ năng chuyên môn tốt hơn và kết nối các nhóm khác nhau trong Giáo hội, như đã đề cập trước đó.

Thứ năm, an toàn và việc bảo vệ an toàn là một tiến trình

Các trường hợp lạm dụng trên toàn cầu trong Giáo hội cho thấy rõ ràng rằng, vì nhiều lý do, vấn đề an toàn và bảo vệ an toàn không phải lúc nào cũng được coi trọng đúng mức. Ngày nay, mặc dù có nhiều nỗ lực để giải quyết các sự kiện bi thảm đã xảy ra, thì chúng ta không nên ảo tưởng. Một vấn đề dù quan trọng đến đâu, thì về lâu dài, nó cũng không thể duy trì được mức độ chú ý như vậy. Những vấn đề khác có thể nảy sinh do áp lực xã hội và chính trị. Những vấn đề này có thể trở thành thói quen khiến chúng ta mất tập trung vào những điều quan trọng. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải ủng hộ những thay đổi này, nhưng chúng ta cần phải nhận thức được chúng. Chúng ta cũng nên xử lý chúng một cách cẩn thận và chu đáo.

Điều quan trọng là phải xác định thời điểm một vấn đề quan trọng bị bỏ qua hoặc không được quan tâm. Chúng ta nên phân tích những hậu quả của tình huống ngoài ý muốn như thế và cần nghĩ đến các biện pháp ngăn ngừa phải có để bảo đảm rằng các vấn đề được xem xét cấp bách, như an toàn và việc bảo vệ an toàn, sẽ không bị phớt lờ một lần nữa. Chúng ta cần lưu ý rằng quy trình ba bước của việc làm rõ, xem xét và phòng ngừa này, vốn không chỉ tập trung vào việc liệu biện pháp bảo vệ an toàn có được áp dụng hay không, nhưng còn xem xét cách thức biện pháp bảo vệ an toàn thực sự phát huy tác dụng. Nếu biện pháp bảo vệ an toàn bị vi phạm theo cách gây tổn hại đến phẩm giá và tính toàn vẹn của con người, chúng ta cần tìm hiểu lý do. Chúng ta cũng phải xử lý các tác động và thực hiện các bước để ngăn chặn việc đó xảy ra lần nữa.

Ngoài ra, một số vấn đề, chẳng hạn như việc bảo vệ an toàn nói chung, phát triển và tiến hóa theo thời gian. Các giải pháp được xác định có thể không còn khả thi hoặc không được nêu rõ ràng và cần được sửa chữa và bổ sung. Thật không thực tế khi tin rằng các khái niệm và hướng dẫn, một khi đã được tạo ra, có thể giữ nguyên mãi mãi. Chúng ta cần quản lý cẩn thận để thích ứng với các tình huống thay đổi trong bối cảnh này và tìm cách định hình chúng để bảo đảm việc bảo vệ an toàn phát huy hiệu quả. Điều này phải được thực hiện với cam kết mạnh mẽ và không thể chỉ được thực hiện bằng cách cưỡng chế. Giống như việc bảo vệ an toàn nói chung, nó dựa trên thái độ cá nhân, được xác định bằng sự nhạy cảm trước nhu cầu của người khác, sẵn sàng đứng lên bảo vệ họ và chấp nhận những xung đột không thể tránh khỏi. Nó cũng bao gồm việc ưu tiên những người gặp rủi ro hơn là lợi ích cá nhân, mở ra đón nhận sự thay đổi, cải thiện, và thành thật giải quyết những sai lầm và điểm yếu của chính mình.

Thứ sáu, an toàn và việc bảo vệ an toàn giống như một sự trao đổi hai chiều

Sự an toàn và phẩm giá con người là những mục tiêu có liên quan chặt chẽ với việc bảo vệ an toàn. Nếu không có việc bảo vệ an toàn, phẩm giá của con người sẽ sớm bị đe dọa; nếu không có phẩm giá, sự an toàn của con người sẽ bị đe dọa ngay lập tức. Điều sau đặc biệt đúng khi các biện pháp bảo vệ được lập kế hoạch và thực hiện mà không có sự tham gia đầy đủ của những người được bảo vệ. Những người được bảo vệ có thể trở thành những đối tượng đơn thuần hoặc thậm chí là cơ hội để được nhìn nhận và tự quảng bá của cơ quan hữu trách. Cuối cùng, những người được bảo vệ sẽ phụ thuộc vào những cơ quan bảo vệ, hoặc các biện pháp mà những cơ quan này thực hiện không đáp ứng được nhu cầu thực sự của họ. Do đó, bất kỳ sáng kiến bảo vệ nào cũng nên bị loại trừ nếu không có sự tham gia của những người mà sáng kiến này nhắm đến việc hỗ trợ và đảm bảo an toàn. Theo một nghĩa nào đó, sự tham gia này cũng sẽ cấu thành việc bảo vệ chính những cơ quan bảo vệ. Nếu áp dụng theo cách này, họ không có nguy cơ gây ra vấn đề cho những người mà họ muốn bảo vệ.

Thứ bảy: an toàn và bảo vệ an toàn như một dự án tùy thuộc

Không có sự an toàn tuyệt đối ở bất kỳ đâu hoặc bất kỳ lúc nào. Có một số lý do cần phải đề cập ở đây. Những rủi ro chung chung gắn liền với cuộc sống như tử vong, bệnh tật nghiêm trọng và đau khổ trong mối quan hệ vẫn luôn có đó khi những nỗ lực của con người cố gắng tìm kiếm sự an toàn, mà chính những nỗ lực đó cũng không chắc chắn. Những người tham gia việc bảo vệ an toàn cần nhận ra rằng mặc dù có thể nỗ lực hết sức để đạt được sự an toàn, nhưng không bao giờ có thể đảm bảo an toàn cách tuyệt đối. Điều quan trọng là phải nhận thức được điều này để tránh thất vọng, chán nản và mất động lực khi làm việc. Nhận ra giới hạn của công việc bảo vệ an toàn cũng có thêm một tác dụng nữa: Nó giúp vạch ra ranh giới giữa cam kết lành mạnh, vô điều kiện đối với những người cần được bảo vệ và sự cuồng tín cần được loại bỏ bởi vì nó không phân biệt giữa an toàn và ép buộc, giữa việc bảo vệ an toàn với việc kiểm soát, giữa công lý với chủ nghĩa cực đoan và giữa sự tận tụy với sự kiêu ngạo.

Các quan điểm

Từ những phản tỉnh trên đây về việc bảo vệ an toàn thì có một khái niệm cơ bản xuất hiện: bảo vệ an toàn xét như một công việc mang tính ngôn sứ của Giáo hội là một nhiệm vụ phức tạp. Nó chỉ có thể thành công nếu được hiểu là nhiệm vụ chung của tất cả những người cùng chung sống và làm việc trong các cấu trúc xã hội khác nhau. Cách tốt nhất để thực hiện điều này là chia sẻ thông tin một cách cởi mở (tính minh bạch/ transparency), thực hành theo cam kết (tuân thủ/ compliance) và chịu trách nhiệm về hành động của mình (trách nhiệm/ accountability). Nếu tất cả các nỗ lực bảo vệ an toàn đều tuân theo ba nguyên tắc này, thì việc bảo vệ an toàn sẽ thúc đẩy hiệu quả tính minh bạch, tuân thủ và trách nhiệm.

Tính minh bạch, tuân thủ và trách nhiệm là nền tảng của cuộc chiến chống lại mọi hình thức lạm dụng quyền lực. Tính minh bạch, tuân thủ và trách nhiệm hạn chế quyền lực mà không làm tê liệt nó, không phải bằng cách để nó phụ thuộc vào khả năng sai lầm vốn có của mỗi con người, mà bằng cách liên hệ nó với cộng đồng những người mà quyền lực này được thực thi. Nhiều trường hợp lạm dụng đã xảy ra trong phạm vi trách nhiệm của Giáo hội và các vụ che đậy liên quan có thể đã được tránh nếu ba nguyên tắc này được áp dụng chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, thường cần có động lực từ bên ngoài Giáo hội – và vẫn cần – để tác vụ ngôn sứ của Giáo hội trong lĩnh vực bảo vệ an toàn có thể trở lại hoạt động bình thường.

Trong bối cảnh này, không quá tự phụ khi nói rằng các ngôn sứ cũng cần được sửa sai và thúc đẩy để hành động. Điều này không làm giảm vai trò tác vụ ngôn sứ của Giáo hội trong lòng thế giới. Rốt cuộc, vấn đề không liên quan đến việc chiều chuộng đặc quyền của Giáo hội, mà là cam kết tích cực noi theo bước chân của Chúa Kitô. Một cam kết như vậy không loại trừ sự trao đổi và hợp tác với những người tham gia vào sứ mạng bảo vệ ở bên ngoài Giáo hội; thực sự, nó đã được thiết lập với mục đích này. Chúng ta có thể liên tưởng tới lời của Chúa Giêsu trong Lc 9,50, “Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta! Hoặc chúng ta cũng có thể liên tưởng trực tiếp tới việc bảo vệ, “Ai không chống lại việc bảo vệ, thì cùng với chúng ta thực hiện nó.” Những hình thức hợp tác này tạo ra sự hiệp lực và nhắc nhở chúng ta về một phần quan trọng trong công việc của mình. Chúng ta phải hành động như những ngôn sứ và hành động mạnh mẽ để bảo vệ sự an toàn, phẩm giá và sự toàn vẹn của mọi người cả bên trong và bên ngoài Giáo hội.

Cho đến nay, trong các tuyên ngôn của mình, Thượng Hội đồng Giám mục, diễn ra từ năm 2021 tới 2024 về chủ đề “Giáo hội Hiệp hành”, đã thúc đẩy mạnh mẽ cho tác vụ ngôn sứ của Giáo hội trong lòng thế giới liên quan đến việc bảo vệ. Thật vậy, ngoài việc giải quyết vấn đề về sự an toàn và vấn đề liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ, Thượng hội đồng còn coi việc bảo vệ là đặc biệt thiết yếu đối với sứ mệnh của Giáo hội. Hy vọng rằng các chỉ dẫn được đưa ra ở đây sẽ được khám phá thêm trong các cuộc thảo luận tiếp theo của Thượng hội đồng.

Peter Đào Anh Tuấn, S.J.

Chuyển ngữ từ: laciviltacattolica.com

Nguồn: dongten.net