Trong phạm vi rộng về mặt lịch sử của liên danh Trump-Vance thì sự phục hồi của niềm tin Công giáo Mỹ dường như đang gia tăng. Nếu vậy, nó sẽ mang lại lợi ích cho cả hai Đảng, cả những người tin và không tin.
Học giả người Mỹ Mary Eberstadt, giám đốc nghiên cứu tại Viện Niềm tin và Lý trí phân tích kết quả cuộc bầu cử tổng thống ngày 5 tháng 11. Bà nghĩ nếu người công giáo bỏ phiếu cho Tổng thống Donald Trump là vì họ bác bỏ các chính sách của Đảng Dân chủ.
Các cử tri của bà Kamala Harris cân nhắc hậu quả của quả bom nổ ngày thứ ba 5 tháng 11, họ sẽ khôn ngoan nếu nhìn lại một số điểm bất ngờ trong cuộc thăm dò ý kiến.
Đây là một: 56% cử tri công giáo bỏ phiếu ủng hộ Donald Trump. Ở một khía cạnh nào đó, kết quả này cần được giải thích. Nói chung, người công giáo không như nhiều người tin lành, họ không phải là những người ủng hộ MAGA, dù vậy, người công giáo bầu cho liên danh Trump-Vance năm 2024 chắc chắn có ý nghĩa, vì ba lý do.
“Vấn đề Công giáo” của Đảng Dân chủ
Đầu tiên, các chính sách hàng đầu của Đảng Dân chủ đã xung đột mạnh với các giáo lý đạo đức quan trọng của đạo công giáo trong một thời gian dài – các vụ phá thai “an toàn, hợp pháp và hiếm gặp” ngày hôm qua đã trở thành “luôn luôn, mãi mãi và rất nhiều”. Sự đồng thuận xấu xa này không chỉ đã cũ mà còn đang được thực hiện. Cụm từ “Đảng Dân chủ ủng hộ sự sống,” vốn từng là một bản sắc chính trị, giờ đây đã trở thành một nghịch lý.
Phá thai cũng không phải là vấn đề duy nhất buộc tín hữu phải chọn giữa đức tin và đảng phái. Cho dù đó là lời chỉ trích “súng ống và tôn giáo” của Barack Obama, “rổ những kẻ đáng trách” của Hillary Clinton hay những cuộc tấn công vào các ứng viên công giáo trước Quốc hội vì họ là người công giáo (dixit Dianne Feinstein, Kamala Harris), các nhà lãnh đạo đảng đã chứng minh điều này hết lần này đến lần khác: Đảng Dân chủ có vấn đề với Công giáo. Tính đến nay, cuối cùng phần lớn người công giáo bỏ phiếu đã nhận thấy.
Tự do tôn giáo bị tấn công
Thành tích của chính quyền Biden-Harris cũng đã giúp đẩy một số cử tri về cánh hữu. Năm 2020, Tổng thống Joe Biden có được 5% số phiếu của người công giáo. Sau đó, Joe Biden và phó tổng thống của ông đã thực hiện các chính sách khiến nhiều cử tri công giáo khó chịu. Cho dù ủng hộ các sáng kiến như Đạo luật Bình đẳng, vốn có thể hủy hoại quyền tự do tôn giáo, hay gọi chuyển giới là “vấn đề dân quyền của thời đại chúng ta”, Tổng thống Công giáo thứ hai của Hoa Kỳ thường giống người phát ngôn cho tổ chức Nhân quyền rất phi Công giáo. Thêm một bước đi sai lầm nữa với các tín hữu, Bộ Tư pháp táo bạo của liên danh Biden-Harris đã cảnh báo FBI về một “mối đe dọa” mới: Người công giáo gắn bó với truyền thống; bản ghi chú của cơ quan FBI thậm chí còn khuyến nghị cơ quan này thâm nhập vào các nhà thờ.
Về phần bà Harris, bà càng làm cho các tín hữu xa lánh hơn. Bà từ chối việc miễn trừ luật phá thai với các cơ sở tôn giáo – một quan điểm có thể đe dọa các chuyên gia y tế công giáo bằng việc phạt tiền, bỏ tù hoặc cả hai. Các cuộc phỏng vấn của bà với các ứng viên tư pháp công giáo gợi lên Chủ nghĩa McCarthy (bà hỏi: ‘Bạn có biết Hiệp sĩ Columbus phản đối quyền lựa chọn của phụ nữ khi bạn gia nhập tổ chức không?’). Bà không quan tâm đến các dịp gắn kết như Bữa tối Công giáo Al Smith ở New York, một trong những hoạt động xã hội từ thiện lưỡng đảng cuối cùng còn sót lại của đất nước. Họ gây quỹ cho người nghèo. Ứng cử viên tổng thống Kamala Harris không màng đến.
Lá bài Vance
Lý do thứ ba làm cho cử tri công giáo có lý do chính đáng để tìm nơi khác vừa bất ngờ vừa đáng khích lệ với nhiều người: sự lựa chọn Thượng nghị sĩ Ohio J.D. Vance làm Phó Tổng thống. James David Vance không chỉ là người trở lại, ông hùng hồn nói về cuộc sống, đức tin và còn hơn thế, ông là chính trị gia công giáo không mặc cảm ở vị trí này từ một thời gian rất dài.
Với các tín hữu bực mình vì những cấm đoán mới, sự hiện diện của ông Vance mang lại thêm phiếu bầu. Và đó là nơi câu chuyện vượt ra ngoài cuộc bầu cử năm 2024. Người công giáo Mỹ đã chịu đựng với Joe Bidens, Nancy Pelosis và Mario Cuomos – các chính trị gia đặt tràng hạt trước cửa văn phòng của họ và vẫy cờ thế tục ở nơi công cộng. Ông J.D. Vance có một điều gì đó mới mẻ: ông là một người trở lại, không lắp bắp hay xin lỗi, người diễn giải giáo huấn của Giáo hội sang ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng: hôn nhân là tốt, con cái thì tuyệt vời, nội dung khiêu dâm hủy hoại tình yêu, chúng ta cần chăm sóc nhau tốt hơn. Tại một cuộc họp ở tòa thị chính vào cuối tháng 10, ông lên tiếng: “Dù quý vị bỏ phiếu cho tôi, cho Donald Trump hay cho Kamala Harris, xin quý vị đừng bỏ các thành viên trong gia đình và tình bạn lâu dài của quý vị. Chính trị không đáng.” Với người tín hữu kitô được rèn luyện từ nhỏ để phân biệt cái gì của Chúa, cái gì của Xêda, điều này gây được tiếng vang.
Phục hồi lòng tin
Cuối cùng, cuộc bầu cử năm 2024 đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lãnh vực chính trị quốc gia, mà còn ở động lực và sự hiểu biết mà người công giáo trong tương lai sẽ mang đến cho công chúng. Trước sự phản đối của Đảng Dân chủ với những giáo lý cơ bản của Giáo hội, không có gì đáng ngạc nhiên khi ngày càng có nhiều người công giáo Mỹ đứng về phía liên danh Trump-Vance năm 2024. Điều đáng ngạc nhiên là “Quá nhiều người trong số họ đã phải chịu đựng một thời gian dài như vậy với ký hiệu Kick-Me mà lẽ ra không bao giờ họ nên có.
Việc bỏ phiếu theo giáo phái không phải là chuyện thống nhất dù ở phòng phiếu hay nơi khác, nhưng trong phạm vi rộng về mặt lịch sử của liên danh Trump-Vance thì sự phục hồi của niềm tin Công giáo Mỹ dường như đang gia tăng. Nếu vậy, nó sẽ mang lại lợi ích cho cả hai Đảng, cả những người tin và không tin.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch